Ngày 30/9/2025, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã thông qua Nghị quyết số 04/2025/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 và Điều 52 của Bộ luật Hình sự (có hiệu lực 15/11/2025) (sau đây gọi là “Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP”).
Trước khi Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP được ban hành, các tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là “BLHS”) đã từng được TAND Tối cao hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2000 (hướng dẫn thi hành BLHS năm 1999). Tuy nhiên, kể từ khi Nghị quyết 01/2000 hết hiệu lực vào tháng 10/2021 đến nay, vẫn chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào thay thế hoặc hướng dẫn cụ thể về nội dung này.
Việc Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP ra đời trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần thiết để thống nhất cách hiểu, thực thi của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với Luật Hình sự hiện hành.
Đối với nhóm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, cụ thể:
Thứ nhất, đối với tình tiết “Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm”, được quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP tương ứng Điểm a Khoản 1 Điều 51 của BLHS:
“a) “Ngăn chặn tác hại của tội phạm” là khi tội phạm đã được thực hiện và người phạm tội tự mình hoặc có sự tác động khách quan nên đã bằng những khả năng có thể để ngăn chặn không cho tác hại của tội phạm xảy ra;
b) “Làm giảm bớt tác hại của tội phạm” là khi tội phạm đã được thực hiện, tác hại của tội phạm đang xảy ra và người phạm tội tự mình hoặc có sự tác động khách quan nên đã bằng những khả năng có thể để không cho tác hại của tội phạm tiếp tục xảy ra hoặc xảy ra lớn hơn.
Khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ này thì mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào thái độ của người phạm tội (tự mình hay có sự tác động của người khác, yếu tố khách quan khác) và thực tế tác hại của tội phạm đã được ngăn chặn, được làm giảm bớt.
Ví dụ: Ngay sau khi gây ra tai nạn giao thông, Nguyễn Văn A đã đưa nạn nhân đi cấp cứu kịp thời nên tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân được giảm bớt. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm a khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự”
Thứ hai, đối với tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” tại Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP tương ứng Điểm b Khoản 1 Điều 51 của BLHS:
“a) Người phạm tội tự mình hoặc đồng ý để cha, mẹ, người khác (vợ, chồng, con, anh, chị, em, bạn bè…) sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra;
b) Người phạm tội không có trách nhiệm sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra (như: việc bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ hoặc thuộc trách nhiệm dân sự của các bị cáo khác trong cùng vụ án) nhưng đã tự nguyện dùng tiền, tài sản của mình hoặc đồng ý để cha, mẹ, người khác (vợ, chồng, con, anh, chị, em, bạn bè…) sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra;
c) Người phạm tội tự nguyện hoặc đồng ý để cha, mẹ, người khác (vợ, chồng, con, anh, chị, em, bạn bè…) dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra, nhưng bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối nhận, mà số tiền, tài sản đó đã được giao cho cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác quản lý để thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra;
d) Có chứng cứ chứng minh người phạm tội tự nguyện hoặc đồng ý để cha, mẹ, người khác (vợ, chồng, con, anh, chị, em, bạn bè…) dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra, nhưng bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự từ chối nhận và họ đã đem số tiền, tài sản đó cất giữ, gửi giữ để sẵn sàng thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả khi có yêu cầu”
Thứ ba, đối với tình tiết “Người phạm tội tự thú” được quy định tại Khoản 16 Điều 2 Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP tương ứng Điểm r Khoản 1 Điều 51 của BLHS:
““Người phạm tội tự thú” quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện. Trường hợp người phạm tội bị bắt, bị phát hiện về một hành vi phạm tội cụ thể, nhưng trong quá trình điều tra tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội khác của mình mà chưa bị phát hiện thì cũng được coi là tự thú đối với việc tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội của mình mà chưa bị phát hiện.
Ví dụ: Ngay sau khi có hành vi gây tai nạn giao thông, hậu quả làm chết người, Nguyễn Văn A đã đến cơ quan công an cấp xã để trình diện và khai báo về hành vi phạm tội của mình. Trường hợp này, Nguyễn Văn A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự”
Thứ tư, đối với tình tiết “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, được quy định tại Khoản 17 Điều 2 Nghị quyết 04/2025/NQ-HĐTP tương ứng Điểm s Khoản 1 Điều 51 của BLHS:
“a) Người phạm tội thành khẩn khai báo là trường hợp đã khai nhận đầy đủ, đúng sự thật, chính xác, rõ ràng về hành vi phạm tội của mình;
b) Người phạm tội ăn năn hối cải là trường hợp cảm thấy day dứt, hối hận về việc mình đã gây ra và mong muốn có cơ hội được sửa chữa lỗi lầm, cải tạo thành người tốt, bù đắp những tổn thất, thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra.
“Thành khẩn khai báo”, “ăn năn hối cải” không phải là hai tình tiết độc lập. Nếu người phạm tội vừa “thành khẩn khai báo”, vừa “ăn năn hối cải” thì chỉ được coi là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Trường hợp người phạm tội bị bắt quả tang, nhưng sau khi bị bắt đã khai báo đầy đủ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thì áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo cho họ. Nếu sau khi bị bắt người phạm tội quanh co, chối tội hoặc khai báo không đúng sự thật của vụ án và chỉ sau khi cơ quan tiến hành tố tụng đã chứng minh được đầy đủ hành vi phạm tội của họ, họ mới nhận sự việc phạm tội của họ đúng như cơ quan tiến hành tố tụng đã chứng minh, thì không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này.
Trường hợp lúc đầu người phạm tội quanh co, chối tội hoặc khai báo không đúng sự thật, nhưng sau đó đã khai báo lại một cách đầy đủ và đúng sự thật diễn biến việc phạm tội, thì vẫn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo đối với họ, nhưng mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp này không thể bằng trường hợp ngay từ đầu họ đã khai báo đầy đủ và đúng sự thật”.